Albumin huyết thanh là gì? Các công bố khoa học về Albumin huyết thanh

Albumin huyết thanh là một loại protein có mặt trong huyết tương, chiếm khoảng 60% tổng lượng protein huyết tương. Albumin chủ yếu được sản xuất bởi tế bào gan ...

Albumin huyết thanh là một loại protein có mặt trong huyết tương, chiếm khoảng 60% tổng lượng protein huyết tương. Albumin chủ yếu được sản xuất bởi tế bào gan và có nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể.

Albumin có khả năng giữ nước trong mạch máu, giúp duy trì áp lực tĩnh mạch và chống trượt mao mạch. Nó cũng đóng vai trò trong việc vận chuyển nhiều chất khác nhau như hormone, các loại dược phẩm, axit béo và chất béo không tan trong nước.

Albumin có khả năng kết hợp với các chất độc hoặc chất cản trở để ngăn chúng tiếp xúc trực tiếp với tế bào, giúp loại bỏ chúng khỏi cơ thể. Ngoài ra, albumin còn có vai trò trong việc duy trì cân bằng colloid-osmotic trong hệ thống chuyển hóa protein và điều chỉnh cân bằng nước trong các cơ quan và mô.

Việc đo lượng albumin huyết thanh trong máu có thể cung cấp thông tin quan trọng về chức năng gan, tình trạng dinh dưỡng và các vấn đề liên quan đến sự cân bằng nước và chất điện giải trong cơ thể.
Albumin huyết thanh là một protein quan trọng có mặt trong huyết tương của con người và động vật. Nó được tổng hợp chủ yếu bởi tế bào gan, nhưng cũng được sản xuất trong một số mô và tế bào khác như tế bào cơ, tế bào thận và tế bào màng nổi trên da.

Albumin có tác dụng quan trọng trong điều tiết áp lực tĩnh mạch. Khi máu đi qua mạch máu, albumin sẽ quấn lấy nước để giữ cho huyết tương có áp suất cao hơn so với các chất lỏng nằm trong mô xung quanh mạch máu. Điều này giúp duy trì áp suất tĩnh mạch lý tưởng và ngăn chặn dịch mô rò rỉ vào mạch.

Ngoài ra, albumin cũng có nhiều chức năng khác. Đây là protein chủ yếu trong việc vận chuyển các chất khác trong huyết tương. Albumin có khả năng kết hợp và vận chuyển hormone, chất béo không tan trong nước, axit béo và dược phẩm. Việc kết hợp với albumin giúp các chất này di chuyển từ nơi này sang nơi khác trong cơ thể.

Albumin còn có vai trò trong quá trình cân bằng nước và chất điện giải trong cơ thể. Khi mất nước hoặc mất chất điện giải, albumin sẽ hút nước vào huyết tương và giữ chất điện giải bên trong mạch máu để duy trì cân bằng cơ thể. Nếu lượng albumin huyết thanh bị giảm, có thể dẫn đến tình trạng nước trong cơ thể không được điều chỉnh tốt, dẫn đến tình trạng khô mắt, khô da, suy giảm áp lực tĩnh mạch và suy giảm huyết áp.

Việc đo lượng albumin huyết thanh thông qua các xét nghiệm máu có thể cung cấp thông tin quan trọng về chức năng gan, đánh giá tình trạng dinh dưỡng và phát hiện các vấn đề về cân bằng nước và chất điện giải trong cơ thể. Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến lượng albumin huyết thanh bao gồm tình trạng sức khỏe, thức ăn, dinh dưỡng, bệnh gan, bệnh thận và viêm nhiễm.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "albumin huyết thanh":

Kỹ thuật thấm paraffin để nghiên cứu sử dụng huỳnh quang miễn dịch Dịch bởi AI
Journal of Histochemistry and Cytochemistry - Tập 10 Số 3 - Trang 250-256 - 1962

Một phương pháp được mô tả cho việc cố định các khối mô để sử dụng trong các nghiên cứu sử dụng huỳnh quang miễn dịch. Phương pháp này bao gồm việc cố định các khối mỏng trong ethanol 95% và tiến hành khử nước và làm trong ở nhiệt độ tủ lạnh (4°C). Sau đó, việc thấm paraffin và cắt lát bằng phương pháp vi thể tiêu chuẩn trở nên dễ dàng.

Phương pháp này tạo ra các chế phẩm có độ chính xác cao hơn về mặt mô học trong việc xác định vị trí kháng nguyên hoặc kháng thể so với các chế phẩm từ mô đông lạnh; và với kháng thể thỏ và albumin huyết thanh bò, độ nhạy của phát hiện được cải thiện. Albumin huyết thanh bò có thể được tìm thấy trong thời gian dài hơn sau khi tiêm so với các lát cắt đông lạnh.

Các kháng nguyên khác mà quy trình này đã chứng minh là đạt yêu cầu bao gồm gamma globulin bò, ferritin ngựa, virus cúm A, giải độc tố bạch hầu và uốn ván. Ovalbumin gà bị suy giảm.

Các kháng nguyên mới hoặc kháng thể mới nên được thử nghiệm trước khi thực hiện theo phương pháp này.

#huỳnh quang miễn dịch #ethanol #paraffin #vi thể #kháng nguyên #kháng thể #albumin huyết thanh bò #gamma globulin #virus cúm #độc tố bạch hầu #độc tố uốn ván #ovalbumin
Fructosamine huyết thanh và albumin glycosyl hóa và nguy cơ tử vong cũng như kết quả lâm sàng ở bệnh nhân thẩm phân máu Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 36 Số 6 - Trang 1522-1533 - 2013
MỤC TIÊU

Các xét nghiệm đo tổng các protein glycosyl hóa trong huyết thanh (fructosamine) và albumin glycosyl hóa cụ thể hơn có thể là những chỉ số hữu ích cho tình trạng tăng đường huyết ở bệnh nhân thẩm phân, hoặc là sự thay thế hoặc bổ sung cho các chỉ số tiêu chuẩn như hemoglobin A1c, vì chúng không bị ảnh hưởng bởi quá trình tái tạo hồng cầu. Tuy nhiên, mối quan hệ của chúng với các kết quả lâu dài ở bệnh nhân thẩm phân chưa được mô tả rõ ràng.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Chúng tôi đã đo fructosamine và albumin glycosyl hóa trong các mẫu ban đầu từ 503 người tham gia thẩm phân máu mới vào một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu quốc gia, được tuyển chọn từ năm 1995–1998 và theo dõi trung bình là 3,5 năm. Các kết quả bao gồm tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh do mọi nguyên nhân và bệnh tim mạch (CVD) (sự kiện CVD đầu tiên và nhập viện do nhiễm trùng huyết đầu tiên) được phân tích bằng hồi quy Cox, điều chỉnh theo đặc điểm nhân khẩu học và lâm sàng, cũng như các bệnh đi kèm.

#Fructosamine #albumin glycosyl hóa #thẩm phân máu #tử vong #bệnh tim mạch #xét nghiệm huyết thanh.
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA 50 BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 NỘI TRÚ Ở BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT NĂM 2022
Mục tiêu: Xác định tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 đang điều trị nội trú và các yếu tố liên quan. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 50 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại khoa Nội tiết Bệnh viện Thống Nhất. Tình trạng dinh dưỡng được đánh giá theo chỉ số khối cơ thể BMI, albumin huyết thanh và đánh giá tổng thể chủ quan SGA. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân thừa cân-béo phì chiếm 34% và BMI <18,5 kg/m2 là 20%. Bệnh nhân có albumin < 35 g/L là 70%. Suy dinh dưỡng theo SGA chiếm 90%. Không tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng theo SGA với các bệnh lý-biến chứng, các chỉ số xét nghiệm cận lâm sàng và BMI. Phương pháp đánh giá theo SGA và albumin huyết thanh có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p = 0,035. Kết luận: Suy dinh dưỡng là vấn đề rất phổ biến ở bệnh nhân đái tháo đường nội trú. Cần kết hợp thêm các phương pháp SGA và albumin để đánh giá tình trạng dinh dưỡng bên cạnh việc sử dụng BMI ở đối tượng này. 
#Tình trạng dinh dưỡng #đái tháo đường #bệnh nhân nội trú #SGA #BMI #albumin huyết thanh
NỒNG ĐỘ CRP, ALBUMIN VÀ GLOBULIN HUYẾT THANH VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỨC ĐỘ BỆNH VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Xác định nồng độ CRP, albumin, globulin huyết thanh của bệnh nhân vảy nến thông thường (VNTT) và mối liên quan với mức độ bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang; gồm 2 nhóm: Nhóm nghiên cứu 55 bệnh nhân nhómVNTT; 55 người khỏe mạnh ở nhóm đối chứng tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. Kết quả: Nhóm nghiên cứu tăng  nồng độ CRP huyết thanh và tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh tăng cao hơn nhóm đối chứng (p<0,001) và có liên quan thuận với mức độ bệnh. Ngược lại, nồng độ albumin huyết thanh nhóm nghiên cứu (39.41 ± 3,74g/l) giảm so với nhóm đối chứng (42.21±2,46 g/l) với p <0,001 và có mối liên quan nghicchj với mức độ bệnh. Nồng độ globulin huyết thanh giữa nhóm VNTT (30.09 ± 3.19g/l) và nhóm đối chứng (29.11 ± 3.16g/l) là tương đương nhau (p>0,05). Kết luận: Có sự tăng nồng độ CRP và tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh, giảm nồng độ albumin huyết thanh bệnh nhân VNTT và sự thay đổi có liên quan với mức độ bệnh.
#nồng độ CRP #nồng độ albumin #tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh #nồng độ globulin #bệnh vảy nến thông thường
ĐẶC ĐIỂM CÁC XÉT NGHIỆM PROTEIN HUYẾT THANH CỦA BỆNH NHÂN VẢY NẾN TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Xác định nồng độ CRP, albumin, globulin huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến và mối liên quan với mức độ bệnh tại bệnh viện Đại học Y hà Nội năm 2021 Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang; Chọn mẫu thuận tiện các đối tượng phù hợp tiêu chuẩn trong thời gian nghiên cứu. Có 74 đối tượng nhóm nghiên cứu và 74 đối tượng nhóm chứng. Kết quả: Nồng độ CRP, tỷ lệ CRP/albumin huyết thanh của nhóm nghiên cứu cao hơn so với nhóm đối chứng, với p <0,001. Nồng độ albumin huyết thanh của nhóm nghiên cứu  giảm hơn nhóm đối chứng với p<0,001. Còn nồng độ globulin huyết thanh sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm. Giữa tỉ số CAR huyết thanh với mức độ bệnh là liên quan thuận với nhau. Không tìm thấy mối liên quan quan giữa nồng độ Globulin huyết thanh với mức độ bệnh. Kết luận: Ở bệnh vẩy nền, nồng độ CRP, tỷ lệ CRP/ albumin huyết thanh tăng cao so với nhóm đối chứng và có liên quan thuận với mức độ bệnh. Không có sự thay đổi nồng độ globulin ở bệnh nhân. Nồng độ CRP huyết thanh có thể được khuyến cáo sử dụng như một phương tiện hỗ trợ trong việc  đánh giá độ nặng của bệnh vảy nến mảng ở bệnh nhân VN.
#nồng độ CRP #tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh #nồng độ albumin #nồng độ globulin #bệnh vảy nến
ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG QUÁ KÍCH BUỒNG TRỨNG NẶNG Ở BỆNH NHÂN THỤ TINH ỐNG NGHIỆM TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị hội chứng quá kích buồng trứng nặng ở bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 80 bệnh nhân quá kích buồng trứng mức độ nặng sau điều trị thụ tinh ống nghiệm điều trị tại trung tâm hỗ trợ sinh sản – Bệnh viện phụ sản Hải Phòng từ 01/01/2017-31/12/2019. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là 28,62 ± 3,49 năm, lý do vào viện chủ yếu có triệu chứng đau bụng là 88,8%, tỷ lệ bệnh nhân buồn nôn và nôn là 83,8%. Bệnh nhân hạ albumin huyết thanh khi nhập viện chiếm 82,5% trong đó thấp nhất là 21,0 g/l. Tỷ lệ bệnh nhân cô đặc máu là mức độ nặng (hematocrit > 50%) là 13,8%. Điều trị nội khoa đơn thuần chiếm 30% và 70% phải điều trị kết hợp cả nội khoa và chọc dịch ổ bụng. Có 53,8% bệnh nhân khỏi hoàn toàn khi xuất viện, 46,2% bệnh nhân ra viện thuyên giảm bệnh điều trị theo đơn, không có trường hợp tử vong.
#quá kích buồng trứng nặng #albumin huyết thanh #chọc dịch ổ bụng
Giá trị tiên đoán của albumin huyết tương kết hợp với nồng độ protein phản ứng C trong huyết thanh ở bệnh nhân cao tuổi nhập viện: tầm quan trọng liên tục của albumin huyết tương Dịch bởi AI
Aging Clinical and Experimental Research - - 2013
Nền tảng và mục tiêu: Mặc dù nồng độ albumin huyết tương và protein phản ứng C (CRP) đều được công nhận riêng rẽ là các yếu tố dự đoán kết quả bất lợi trong nhiều bệnh, nhưng giá trị dự đoán của sự kết hợp của chúng đối với kết quả bất lợi chưa được đánh giá. Do đó, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu giá trị tiên đoán của albumin huyết tương đối với tử vong trong bệnh viện trong bối cảnh có hoặc không có tình trạng viêm nặng, được chỉ định bởi nồng độ CRP cao. Phương pháp: Trong nghiên cứu nhóm này, chúng tôi đã đo lường nồng độ albumin huyết tương và CRP ở 1638 bệnh nhân cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) nhập viện do các vấn đề y tế, và xem xét tính hữu dụng của chúng, cả riêng lẽ và trong sự kết hợp, để dự đoán tử vong trong bệnh viện. Kết quả: Trong các phân tích riêng rẽ về CRP và albumin, cả nồng độ CRP cao (≥5 mg/dl) và hạ albumin (<3.5 g/dl) đều liên quan đến nguy cơ tử vong trong bệnh viện. Sau khi chia người tham gia thành bốn nhóm dựa trên nồng độ CRP và albumin (<5 mg/dl CRP và <3.5 mg/dl albumin), những người có tình trạng viêm nặng (CRP ≥5 mg/dl) và hạ albumin liên quan đến nguy cơ tương đối đã điều chỉnh (ARR) là 3.8 đối với tử vong trong viện so với nhóm tham chiếu (albumin cao và CRP thấp). Ngay cả khi không có tình trạng viêm nặng, sự hiện diện của hạ albumin nặng cũng liên quan đến ARR 2.6 đối với tử vong trong bệnh viện, so với các bệnh nhân không hạ albumin. Kết luận: Cả nồng độ CRP huyết thanh và albumin đều là những yếu tố dự đoán tử vong trong bệnh viện. Tuy nhiên, nồng độ albumin huyết thanh cao có thể có tác dụng bảo vệ ở bệnh nhân cao tuổi, bất kể mức độ viêm. Nồng độ albumin huyết thanh vẫn là yếu tố dự đoán hữu ích cho tử vong trong bệnh viện ở những bệnh nhân cao tuổi nhập viện.
#albumin huyết tương #protein phản ứng C #tử vong trong bệnh viện #người cao tuổi #viêm nặng
Mối liên hệ giữa viêm và kết quả chức năng ở bệnh nhân mắc chứng nuốt khó do teo cơ Dịch bởi AI
Elsevier BV - Tập 26 - Trang 400-406 - 2022
Nghiên cứu này nhằm điều tra xem viêm có ảnh hưởng đến khả năng nuốt và cải thiện điều trị cho chứng nuốt khó do teo cơ hay không. Một nghiên cứu đoàn hệ quan sát hồi cứu đã được thực hiện bằng cách sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu chứng nuốt khó do teo cơ Nhật Bản. Cơ sở dữ liệu được xây dựng dựa trên dữ liệu từ 19 bệnh viện và một nhóm phục hồi chức năng tại nhà. Những bệnh nhân mắc chứng nuốt khó do teo cơ có đo lường protein phản ứng C (CRP) và albumin huyết thanh (Alb) đã được bao gồm. Bệnh nhân được phân chia thành hai nhóm dựa trên CRP, Alb và điểm tiên lượng Glasgow sửa đổi Nhật Bản (mGPS). Thang điểm Thực phẩm đưa vào (FILS) được đo lường tại thời điểm nhập viện và theo dõi (FILS theo dõi) để đánh giá chức năng nuốt. Tổng cộng có 197 bệnh nhân được bao gồm. Giá trị trung bình hoặc trung vị của từng tham số như sau: độ tuổi: 83.8±8.7, Alb: 3.2 ± 0.6 g/dL, CRP: 8.0 [3.0, 29.0] mg/L, mGPS: 1 [1–2], FILS: 7 [6–8], FILS theo dõi: 8 [7–8], và thời gian theo dõi: 57.0 [27.0, 85.0] ngày. Điểm FILS tại thời điểm theo dõi thấp hơn đáng kể ở nhóm CRP cao (≥ 5.0 mg/L) so với nhóm CRP thấp (< 5.0 mg/L) (p = 0.01). Hơn nữa, điểm FILS tại thời điểm theo dõi thấp hơn đáng kể ở nhóm mGPS cao (hạng; 2) so với nhóm mGPS thấp (hạng; 0 và 1) (p = 0.03). Trong các phân tích hồi quy tuyến tính đa biến không tính đến FILS tại thời điểm ban đầu, CRP và mGPS là những yếu tố nguy cơ độc lập cho FILS theo dõi. Khi FILS tại ban đầu được đưa vào phân tích, CRP và mGPS không còn là những yếu tố nguy cơ độc lập cho FILS theo dõi. Viêm có thể làm thay đổi kết quả của bệnh nhân mắc chứng nuốt khó do teo cơ. Viêm có thể là một yếu tố nguy cơ quan trọng trong việc đánh giá bệnh nhân mắc chứng nuốt khó do teo cơ.
#viêm #nuốt khó #teo cơ #protein phản ứng C #albumin huyết thanh #chỉ số tiên lượng Glasgow sửa đổi Nhật Bản #thang điểm thực phẩm đưa vào
Hệ thống vận chuyển thuốc điều trị ung thư vú dựa trên carbon nanotube mới: Chuẩn bị và phân tích in vitro bằng Paclitaxel Dịch bởi AI
Cell Biochemistry and Biophysics - Tập 71 - Trang 1405-1414 - 2015
Paclitaxel (PTX) là một trong những loại thuốc quan trọng nhất trong điều trị ung thư vú; tuy nhiên, hiệu quả của thuốc bị hạn chế bởi độc tính hệ thống và độ hòa tan trong nước kém. Các hạt nano đã được áp dụng để vận chuyển thuốc điều trị ung thư nhằm khắc phục những hạn chế này. Hướng tới mục tiêu này, một hệ thống vận chuyển thuốc mới dựa trên ống nano carbon đơn lớp (SWNT) đã được phát triển thông qua sự gắn kết của các hạt nano albumin huyết thanh người (HSA) để tải thuốc chống ung thư PTX. Vật mang thuốc SWNT-HSA có kích thước nano đã được đặc trưng bằng TEM, quang phổ UV–Vis-NIR, và TGA. Vật mang thuốc dựa trên SWNT thể hiện hiệu quả giao hàng trong tế bào cao (tỷ lệ hấp thu tế bào là 80%) trong các tế bào ung thư vú MCF-7, như đã được kiểm tra bằng các vật mang thuốc được đánh dấu huỳnh quang, cho thấy rằng vật mang thuốc SWNT-HSA có hình dạng như kim đã có khả năng vận chuyển thuốc qua màng tế bào mặc dù có cấu trúc đại phân tử. Quá trình tải thuốc lên vật mang thuốc dựa trên SWNT diễn ra thông qua sự tương tác mạnh mẽ giữa PTX và protein HSA. PTX được công thức với SWNT-HSA cho thấy hoạt tính ức chế tăng trưởng lớn hơn trong các tế bào ung thư vú MCF-7 so với PTX được công thức chỉ với hạt nano HSA (tính khả dụng tế bào là 63 so với 70% trong 48 giờ và 53 so với 62% trong 72 giờ). Hiệu quả thuốc tăng lên có thể là nhờ vào việc hấp thụ tế bào do SWNT trung gian. Những dữ liệu này cho thấy rằng tác nhân chống ung thư dựa trên SWNT đã được phát triển là có chức năng và hiệu quả. Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu hơn về hiệu quả vận chuyển thuốc in vivo và các đặc tính khác trước khi hệ thống vận chuyển này có thể được hiện thực hóa hoàn toàn.
#Paclitaxel #ống nano carbon #ung thư vú #hệ thống vận chuyển thuốc #albumin huyết thanh người
Nghiên cứu sự tương tác giữa Cu(II) và HSA hoặc BSA bằng phương pháp thẩm tách cân bằng Dịch bởi AI
Science China Press., Co. Ltd. - Tập 43 - Trang 404-409 - 1998
Sự tương tác giữa Cu(II) và albumin huyết thanh người (HSA) hoặc albumin huyết thanh bò (BSA) ở pH sinh lý được nghiên cứu thông qua phương pháp thẩm tách cân bằng. Các hằng số ổn định kế tiếp được thu được bằng phương pháp bình phương tối thiểu phi tuyến phù hợp công thức Bjerrum. Đối với cả hệ Cu(II)-HSA và Cu(II)-BSA, bậc của K1 và K2 được xác định là khoảng ≈104 mol−1·dm3. Có khoảng hai mươi vị trí liên kết stoichiometry được tìm thấy trong một phân tử HSA hoặc BSA. Chúng có thể được chia thành hai hoặc ba tập hợp. Kết quả từ các thí nghiệm thẩm tách cân bằng cho thấy tồn tại một vị trí liên kết kim loại mạnh trong cả hai hệ Cu(II)-HSA và Cu(II)-BSA. Đó chính là các nguyên tử nitơ trong nhóm imidazol của His3 chủ yếu liên quan đến vị trí liên kết đồng. Sau khi đạt được cân bằng thẩm tách, có sự tương tác giữa các vị trí liên kết khác nhau, các giá trị của K đều sai lệch so với hiệu ứng thống kê đơn giản, ngoại trừ K1 và K2 trong cả hai hệ thống Cu(II)-HSA và Cu(II)-BSA, và hiệu ứng hợp tác tích cực được phát hiện.
#Cu(II) #albumin huyết thanh người #albumin huyết thanh bò #thẩm tách cân bằng #hằng số ổn định #vị trí liên kết kim loại #hiệu ứng hợp tác
Tổng số: 30   
  • 1
  • 2
  • 3